Tên di sản : Đền thờ- Mộ Trần Lựu - Khai quốc công thần trong khởi nghĩa Lam Sơn thế kỉ XV
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 416/QĐ - UBND
Giới thiệu
Khu Đền thờ:
Đền thờ Trần Lựu có kết cấu hình chữ Nhất với kiến trúc 3 gian nhà gỗ, nhỏ nhắn, chắc chắn hòa hợp cùng với thiên nhiên cây cối xung quanh.
Toàn bộ khuôn viên nhà thờ nằm trên thửa đất 1985 với diện tích 417m2, trong khuôn viên gồm đền thờ, nhà bia và sân, xung quanh được xây tường bao lửng để làm ranh giới phân biệt với các hộ dân khác.
Đền thờ có chiều dài 9,1m, chiều rộng 6,3m, quay hướng nam gồm 3 gian, 4 vì gỗ. Hệ vì của nhà thờ được kết cấu theo kiểu giá chiêng, chồng rường bẩy hiên.
Để tạo nên không gian sử dụng, hai vì chính (vì thứ 2 và vì thứ 3) tạo nên gian giữa có kết cấu giống nhau gồm 5 hàng cột. Các hàng chân cột của các vì này gồm: cột hiên cao 2,57m, chu vi 68cm; cột long cốt cao 3,23m, chu vi 63cm; cột cái sau cao 3,23m, chu vi 63cm; cột quân tiền cao 3,30m, chu vi 63cm; cột quân hậu cao 2,60m, chu vi 68cm. Chân tảng cột chính có kích thước 27cm x 27cm, đường kính mặt gương 23cm.
Khoảng cách từ tim cột hiên đến tim cột long cốt là 1,9m; từ tim cột long cốt đến cột cái hậu là 3,65m; từ tim cột cái hậu đến tim cột quân tiền là 1,15m; từ tim cột quân tiền đến tim cột quân hậu là 60cm.
Phía dưới là quá giang, bên trên là câu đầu nối giữa đầu trụ trốn phía trước và đầu cột cái sau, đứng trên câu đầu là hai trụ trốn của giá chiêng, bên trên nữa là rường bụng lợn và thượng lương.
Gian chính giữa được bài trí bức đại tự cổ: “công trường tại” (công lao to lớn, lâu dài tại đây) và rất nhiều câu đối cổ với nội dung như sau:
Câu đối thứ nhất:
Phiên âm:
Thần quy Lam Động thiên phong tuốt
Công tại Pha quan nhất kiếm hùng
Dịch nghĩa:
Thần tại Lam Sơn ngàn ngọn biếc;
Công ghi Pha Lũy lưỡi gươm hùng.
Câu đối thứ 2:
Lỗ Tự tĩnh cương di trạch quảng;
Lam Kinh thư khoán cố gia tồn.
Dịch nghĩa:
Giếng đời Lỗ Tự truyền ơn rộng;
Ước hẹn với Lam Kinh giữ tiếng nhà.
Vì thứ 1 và vì thứ 4 có kết cấu 5 hàng chân cột. Gồm có cột hiên, cột long cốt, cột cái hậu, cột quân tiền, cột quân hậu.
Kết cấu bộ vì này gồm có câu đầu, đứng trên câu đầu là hai trụ trốn của giá chiêng đỡ rường bụng lợn, trên cùng là Thượng lương.
Trên các bộ vì hầu hết không được chạm trổ hoa văn cầu kỳ. Chỉ có ở đầu các cấu kiện như quá giang, câu đầu và các con rường được điểm xuyết một vài hoa văn hình hoa lá cách điệu.
Kết cấu dọc của nhà thờ là các xà dọc để liên kết các bộ vì với nhau. Gian hồi bên tả rộng 2,70m; gian giữa rộng 2,93m, gian hồi bên hữu rộng 2,8m. Khoảng cách từ vì thứ 1 và vì thứ 4 đến hai bên tường hồi là 1m. Hiện nhà thờ có chiều rộng 1,54m. Trên các bẩy hiện được chạm trổ hoa văn hình hoa lá.
Khoảng cách từ tim cột hiên đến tim cột long cốt là 1,9m; từ tim cột long cốt đến cột cái hậu là 3,65m; từ tim cột cái hậu đến tim cột quân tiền là 1,15m; từ tim cột quân tiền đến tim cột quân hậu là 60cm.
Phần mái: hệ thống hoành, rui, mè đều được làm bằng gỗ. Bên trên lợp ngói mũi hài hoa cúc. Bờ nóc đắp kìm nóc, chính giữa đắp Lưỡng long chầu Nhật, bờ giải đắp vuông kết hợp trụ biểu theo kiểu truyền thống. Chiều cao từ móng lên đến hết hồi là 5,65m.
Nhà thờ có ba cửa đi chính theo kiểu bức bàn. Mỗi cửa gồm 4 cánh, cao 2,13m, rộng 1,85m. Cánh cửa chính rộng 56cm, các cánh cửa bên rộng 52cm. Trên các cánh cửa không được chạm trổ hoa lá cầu kỳ.
Hai bên đền thờ có hai trụ biểu hình vuông, cao 5,3m, rộng 60cm, dày 40cm. Chiều cao từ mặt đất đến hết cấp thứ nhất: 40cm; từ cấp thứ nhất đến dưới ô lồng đèn: 3,7m; từ dưới ô lồng đèn đến đỉnh: 1,25m. Bốn mặt có khắc câu đối.
Phía trước đến chính là phần mái bằng làm bằng bê tông cốt thép, có chiều dài 6,1m; rộng 4,84m, gồm 2 hàng chân cột với 06 cột bê tông. Chiều cao mỗi cột là 2,1m. Đứng trên hệ chân tảng bê tông vuông 27cm x 27cm, để làm nơi cho con cháu sinh hoạt mỗi khi có việc tại đền thờ.
Nhà bia: nhà bia được dựng lên để che bia, có kiến trúc 3 tầng 12 mái. Chiều cao toàn bộ nhà bia: 5,85m, vuông 2,48m x 2,48m. Khoảng cách từ mặt đất đến diềm tầng mái thứ nhất: 2,93m; từ diềm tầng mái thứ nhất đến đầu đao tầng mái thứ nhất: 66cm; từ đầu đao tầng mái thứ nhất đến đầu đao tầng mái thứ 2: 83cm; từ đầu đao tầng mái thứ 2 đến đầu đao tầng mái thứ 3: 65cm.
Bên trong nhà bia là bia đá cổ, bia có nội dung: “Trùng tu Điềm Quốc công Từ đường bị ký” (bia ghi chép về việc trùng tu đền thờ Điềm Quốc công (Trần Lựu). Bia được khắc năm Giáp Tý niên hiệu Tự Đức (1864), do Đốc học tỉnh Thanh Hóa Như Bá Sĩ soạn. Nội dung cơ bản là ca ngợi sự nghiệp phò giúp nhà Lê giữ nước của Trần Lựu và việc tu sửa đền thờ Điềm Quốc công. Văn bia cũng nói lên vị trí, vẻ đẹp của đền thờ cùng kinh phí sửa chữa và lễ vật thờ cúng của con cháu trong họ mạc.
Bia có kích thước: cao 1,87m, rộng 1,27m, dày 45cm.
Sân và khuôn viên: khuôn viên còn lại của đền thờ là nơi trồng rau màu, các loại cây ăn quả...
Cổng nhà thờ được xây theo kiểu tứ trụ, xây bằng bê tông. Hai trụ lớn có chiều cao 4,09m, rộng 35cm, đỉnh trụ đắp hoa sen; hai trụ bé cao 3,51m, rộng 33cm. Khoảng cách từ trụ lớn đến trụ bé 50cm. Cửa cao 2,5m, rộng mỗi cánh 1,05m, cửa được làm bằng sắt theo kiểu hiện đại. Hai trụ lớn nối liền với nhau bằng xà ngang, phía trên trang trí hoa văn đội mặt nguyệt, trụ lớn nối với trụ bé bằng tường xây kiểu cánh phong.
Diện tích còn lại trong khuôn viên của nhà thờ được trồng các loại cây như cây cau, cây ăn quả.
Nhà vệ sinh được bố trí kín đáo, hợp lý ở vị trí trong cùng, phía sau nhà thờ.
Khu mộ:
Có diện tích 693m2. Trong khu mộ có một miếu thờ để làm nơi trông coi khu mộ, đồng thời đặt bát hương của những ngôi mộ mộ đất xung quanh mộ Trần Lựu. Khu mộ này được xây dựng dưới chân núi Mao, hay còn gọi là núi Tử, ngoài ra còn có tên khác là núi Phúc Nhân.
Miếu thờ có kiến trúc 3 gian, bốn vì bằng gỗ, dài 5,7m, rộng 3,2m, cao 3,85m. Hệ vì trong miếu thờ có kết cấu theo kiểu kèo suốt. Hoành tải, rui, mè được làm bằng luồng. Mái lợp ngói máy.
Mộ Trần Lựu nằm ở phía trước miếu, có kích thước vuông 3,6m x 3,6m. Khoảng cách từ khu mộ đến ranh giới phía bắc là 4,2m; đến ranh giới phía nam là 10,7m; đến ranh giới phía đông là 9,2m và đến ranh giới phía tây là 13,9m
Thờ tự:
Khu đền thờ:
Ban chính giữa: được bài trí theo 3 cấp. Cấp trong cùng, cao nhất thờ Bố Trần Lựu, cụ tên là Trần Huy Liệu, từng làm quan triều Trần, phong tước Thượng Đình Hầu; cấp thứ hai thờ Trần Lựu; cấp thứ 3 thờ Hội đồng.
Ban bên hữu (nhìn từ trong ra): thờ Trần Lạn, con trai thứ của Trần Lựu.
Ban bên tả (nhìn từ trong ra): con trưởng của Trần Lựu, tức Cố Lê Kim tử Vinh lộc Đại phu, Lễ bộ Thượng thư Đôn Cung bá Trần Ngộ.
Ban thờ hồi bên Hữu: thờ bà tổ cô Trần lệnh thị, tên hiệu là Từ Lĩnh.
Ban thờ hồi bên Tả: thờ Quan Tri phủ huyện Thọ Xuân, ông Trần Bình (cháu đời thứ 16 của Trần Lựu). Ông là người có công di dời và thờ cúng Trần Lựu tại là Lỗ Tự, xã Thiệu Quang, huyện Thiệu Hóa.
Ban thờ hồi bên Tả: Thờ vọng các ngôi mộ trên lăng.